Hoàn cảnh chiến trường Xô–Đức đến tháng 1 năm 1945 Chiến_dịch_Wisla–Oder

Mặt trận Xô-Đức vào lúc diễn ra Chiến dịch Vistula–Oder năm 1945[2]Sau chiến dịch Bagration tình hình chính trị, kinh tế, quân sự, của Đế chế thứ Ba xấu đi một cách thảm hại. Các đồng minh của Đức đều tan rã, chỉ còn lại Hungary cũng đang trong những ngày hấp hối cuối cùng và đang tìm cách "đi đêm" với kẻ thù. Các cơ sở kinh tế, quốc phòng bị không lực đồng minh AnhMỹLiên Xô hủy diệt rất nặng nề, nguyên liệu, nhiên liệu cạn kiệt, sản xuất quốc phòng sụt giảm thê thảm. Quân đội Đức đã thiếu vũ khí, nhiên liệu lại không thể duy trì nổi quân số nhiều triệu quân với mức độ thương vong quá lớn: tổng động viên đến mức ráo riết nhất cũng không bù được cho số tổn thất lại với chất lượng quân lính kém xa. Đức đã phải huy động người già, thiếu niên từ các tổ chức bán vũ trang như thanh niên Hitler, Volkssturm vào quân đội với trình độ huấn luyện và tinh thần chiến đấu kém xa trước đây. Sức mạnh của Đế chế thứ Ba đã cạn kiệt: cả kinh tế, chính trị và quân sự đều đang sụp đổ.[cần dẫn nguồn]

Tuy nhiên sau chiến dịch Bagration tại mặt trận phía Đông hướng WarszawaBerlin chiến sự im ắng đến hơn 4 tháng, từ đầu tháng 9 đến hết tháng 12 năm 1944 quân đội Xô Viết tích cực chuẩn bị nhưng chưa tấn công, cả hai bên không có hành động quân sự tích cực nào. Thời gian tạm nghỉ đã cho phép quân Đức chắp vá những lỗ hổng phòng ngự trên hướng Warszawa–Berlin và điều quân dự bị tấn công tuyệt vọng tại mặt trận phía tây chống liên quân AnhMỹ tại chiến dịch Ardennes và điều quân xuống phía nam phản công tại các trận đánh lớn tại vùng hồ Balaton Hungary để phòng thủ Budapest.

Trong thời gian này tại hướng Warszawa–Berlin quân đội Xô Viết đã thi hành một khối lượng công việc khổng lồ để đảm bảo hậu cần cho những chiến dịch tấn công to lớn và liên tục sắp tới để mau chóng đánh bại Đức Quốc xã. Các phương diện quân Xô Viết được cung cấp số đạn dược đủ để tiến hành 4 đến 5 chiến dịch thông thường cho phép Hồng quân tấn công liên tục trên diện rộng cho đến hết chiến tranh.